Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đang bắt đầu được cảm nhận trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường vốn. Bài viết này khảo sát sự phát triển và tác động của công nghệ này đối với hiệu quả, cấu trúc thị trường ngân hàng, chiến lược của những người đương nhiệm và những người mới tham gia và sự ổn định tài chính. Công nghệ tài chính có khả năng phá vỡ nâng cao phúc lợi nhưng quy định cần phải thích ứng để công nghệ mới mang lại những lợi ích đã hứa mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính. Công nghệ tài chính có thể được hiểu là việc sử dụng thông tin sáng tạo và công nghệ tự động hóa trong các dịch vụ tài chính. Các công nghệ kỹ thuật số mới tự động hóa nhiều hoạt động tài chính và có thể cung cấp các sản phẩm mới và hiệu quả hơn về mặt chi phí trong một số lĩnh vực của lĩnh vực tài chính, từ cho vay đến quản lý tài sản, và từ tư vấn danh mục đầu tư đến hệ thống thanh toán. Trong các phân khúc đó, tác động của các đối thủ cạnh tranh công nghệ tài chính đang bắt đầu được cảm nhận trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường vốn.
Tuy nhiên, lĩnh vực công nghệ tài chính còn nhỏ so với quy mô của các tài sản trung gian tài chính và thị trường vốn, và tụt hậu ở châu Âu, cả về mức độ và tốc độ tăng trưởng, so với Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc. Ở Liên minh Châu Âu (EU), chỉ có Vương quốc Anh có sự phát triển đáng kể. Ngay cả thị trường công nghệ tài chính lớn nhất, ở Trung Quốc, cũng chỉ có quy mô nhỏ so với hoạt động trung gian tài chính của cả nước. Ở EU, phần lớn công nghệ tài chính tập trung ở Vương quốc Anh. Hơn nữa, công nghệ tài chính ở Châu Âu có xu hướng có trụ sở trong nước và có rất ít luồng chảy xuyên biên giới. Điều này trái ngược với Hoa Kỳ và Trung Quốc, nơi những người mới tham gia có thể phát triển nền kinh tế theo quy mô khi phục vụ một thị trường lớn. Với sự ra đời của các mô hình kinh doanh mới dựa trên việc sử dụng dữ liệu lớn, Fintech có tiềm năng phá vỡ các trung gian tài chính đã thành lập và đặc biệt là các ngân hàng. Dữ liệu lớn có thể được xử lý bằng các thuật toán từ trí tuệ nhân tạo (AI), hưởng lợi từ sức mạnh tính toán tiên tiến (bao gồm điện toán đám mây, lưu trữ di động thông qua đám mây và phần cứng di động, cho phép truy cập liên tục).
Kết quả của việc áp dụng các kỹ thuật mới có thể là chi phí thấp hơn cho trung gian tài chính và cải thiện sản phẩm cho người tiêu dùng. Ví dụ, các cơ sở Fintech có thể giúp đánh giá tốt hơn khả năng tín dụng của người nộp đơn xin vay khi một tổ chức sàng lọc họ và cải thiện giao diện giữa khách hàng tài chính và nhà cung cấp dịch vụ của họ. Lấy ví dụ như thị trường thế chấp ở Hoa Kỳ, nơi thị phần của các ngân hàng ngầm (tức là
các tổ chức cho vay không phải ngân hàng) đã tăng gần gấp ba lần trong giai đoạn 2007-2015. Vào cuối giai đoạn, các công ty công nghệ tài chính chiếm gần một phần ba nguồn gốc cho vay của ngân hàng ngầm. Buchak và cộng sự (2017) ước tính rằng gánh nặng quản lý gia tăng đối với các ngân hàng truyền thống (về mặt yêu cầu tăng vốn và giám sát pháp lý) giải thích khoảng 55% sự tăng trưởng của ngân hàng ngầm trong giai đoạn này nhưng 35% động lực này được giải thích bằng việc sử dụng công nghệ tài chính.
Thật vậy, người ta thấy rằng công nghệ phát hành trực tuyến cho phép các cửa hàng Fintech cung cấp nhiều tiện ích hơn cho người đi vay và họ có lãi suất cao hơn trong số những người đi vay coi trọng sự tiện lợi này hơn. Các công ty Fintech sàng lọc tốt hơn những người đi vay tiềm năng bằng cách sử dụng các mô hình thống kê được cải tiến dựa trên dữ liệu lớn và có khả năng định giá rủi ro thế chấp và phân biệt giá tốt hơn.
Họ có thể làm như vậy bằng cách kết hợp dữ liệu hiện có hoặc bằng cách sử dụng các chiều dữ liệu khác mà các ngân hàng truyền thống không thể truy cập. Các tác giả thấy rằng lãi suất tính phí giải thích nhiều hơn về sự thay đổi trong kết quả trả trước giữa những người đi vay đối với các khoản vay của các công ty Fintech so với các trung gian không phải Fintech.
1. Hoạt động kinh doanh công nghệ tài chính và hiệu quả
Những phát triển chính trong ứng dụng công nghệ số cho đến nay đã diễn ra trong lĩnh vực cho vay, hệ thống thanh toán, tư vấn tài chính và bảo hiểm. Trong tất cả các phân khúc kinh doanh đó, công nghệ tài chính có tiềm năng hạ thấp chi phí trung gian và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính, tăng cường sự hòa nhập tài chính (tức là công nghệ tài chính có thể là cánh cửa cho các bộ phận dân số chưa được phục vụ và các quốc gia kém phát triển). Một trong những lý do cho vai trò nâng cao hiệu quả này nằm ở tiềm năng giúp khắc phục tình trạng bất đối xứng thông tin, vốn là gốc rễ của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đồng thời, các công ty công nghệ tài chính không phải xử lý các công nghệ cũ và có văn hóa thiết kế hoạt động hiệu quả. Điều này khiến họ có năng lực đổi mới lớn hơn so với các thực thể truyền thống. Các nền tảng cho vay ngang hàng (P2P) cung cấp tín dụng mà không cần trung gian ngân hàng nơi các cá nhân và công ty đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ. Những nền tảng đó kết nối trực tiếp người đi vay và người cho vay: một số cho phép người cho vay chọn người đi vay; ở những nơi khác, họ tạo thành các gói cho vay và đấu giá trực tuyến thường được sử dụng. Các nền tảng này thường cung cấp thứ hạng rủi ro của doanh nghiệp thu được bằng các thuật toán để sàng lọc người vay bằng dữ liệu lớn. Từ một tổ chức khiêm tốn, cho vay ngang hàng đang phát triển nhanh chóng ở Hoa Kỳ (với LendingClub và Prosper là những công ty dẫn đầu) và ở Vương quốc Anh (với Zopa là một ví dụ). Các quốc gia châu Âu hàng đầu khác về cho vay tiêu dùng ngang hàng là Đức, Pháp và Phần Lan. Cho vay doanh nghiệp ngang hàng rất phổ biến ở Trung Quốc, nhưng vai trò của nó bị hạn chế ở EU. Các nền tảng huy động vốn cộng đồng đã tăng đáng kể ở các quốc gia EU, với Pháp, Hà Lan, Ý và Đức dẫn đầu.
Các ngân hàng, cũng như Visa và MasterCard, vẫn thống trị thị trường thanh toán giao dịch, nhưng những cải tiến thanh toán thường đến từ các tổ chức phi ngân hàng như PayPal, Apple hoặc Google. Điều đáng chú ý là các chương trình thanh toán trên thiết bị di động có tác động lớn ở các quốc gia mà tỷ lệ người dân sở hữu tài khoản vãng lai tại ngân hàng còn nhỏ. Ví dụ, các quốc gia ở Châu Phi, nơi chỉ một trong bốn người có tài khoản ngân hàng nhưng, theo The Economist, người khác có thể sử dụng điện thoại di động, thì họ đang trở thành nơi thử nghiệm cho các hệ thống thanh toán mới cũng như các khoản vay cho những người tiêu dùng có ít lịch sử tín dụng.
Các hệ thống thanh toán truyền thống cũng có thể bị phá vỡ bởi các loại tiền kỹ thuật số như Bitcoin. Trong các hệ thống tiền tệ đó, hoặc tiền điện tử, các kỹ thuật mã hóa điều chỉnh việc tạo ra các đơn vị tiền tệ bằng công nghệ blockchain. Công nghệ này bao gồm một cơ sở dữ liệu kỹ thuật số công khai, trong đó các giao dịch có thể được xác minh bằng một hệ thống các khối hồ sơ theo cách phi tập trung. Nó cho phép giá trị được chuyển ngang hàng mà không cần bất kỳ trung gian nào để xác minh giao dịch, với một số lượng lớn máy tính xác thực từng giao dịch theo trình tự. Công nghệ blockchain có khả năng gây gián đoạn vì nó mở ra cánh cổng cho nhiều cải tiến tiết kiệm chi phí tiềm năng. Nó cũng cho phép một loại tiền tệ mà không cần sự hỗ trợ của chính phủ hoặc một bên trung gian đáng tin cậy, một chức năng trung gian mà các ngân hàng đã chuyên môn hóa. “Robo-advisors”, các chương trình máy tính tạo ra lời khuyên đầu tư theo thông tin họ có về khách hàng và sử dụng các công cụ học máy, là một giải pháp thay thế rẻ tiền cho các cố vấn tài sản của con người. Hơn nữa, nếu được lập trình đúng cách, các cố vấn robot có thể tránh được một số xung đột lợi ích thông thường gây ảnh hưởng đến ngành. Tư vấn tự động vẫn còn rất mới mẻ và nhỏ so với tư vấn tài chính nói chung, đặc biệt là ở Châu Âu, nơi tài sản được quản lý chỉ chiếm chưa đến 6% so với Hoa Kỳ.
Lê Phúc Minh Chuyên