Cân bằng tài chính là một nội dung trong công tác quản trị tài chính của doanh nghiệp, thể hiện sự cân đối tài sản và nguồn vốn. Cân bằng tài chính phản ánh phương thức và chính sách tài trợ của doanh nghiệp.
Phân tích cân bằng tài chính là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn chính sách tài trợ phù hợp. Nhằm đánh giá cân bằng tài chính trong ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp ta đi phân tích các chỉ tiêu vốn lưu động ròng (VLDR), nhu cầu vốn lưu động ròng (NCVLĐR) và ngân quỹ ròng (NQR).
1. Phân tích vốn lưu động ròng và cân bằng tài chính trong dài hạn
Cân bằng tài chính dài hạn được thể hiện qua chỉ tiêu vốn lưu động ròng. Trong đó: Vốn lưu động ròng là khái niệm phản ánh khoản chênh lệch giữa các nguồn vốn và tài sản có cùng tính chất và thời gian sử dụng.
Nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính là doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản dài hạn, dùng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Điều đó đảm bảo rằng các tài sản dài hạn sẽ được sử dụng trong thời hạn dài mà không phải chịu áp lực về thanh toán cho nguồn hình thành. Cách tài trợ này giúp doanh nghiệp có được sự ổn định, an toàn về mặt tài chính.
Có hai phương pháp tính VLĐR của doanh nghiệp:
- VLDR là phần chênh lệch giữa TSNH với nguồn vốn tạm thời
Vốn lưu động ròng = TSNH - NVTT
Công thức này thể hiện cách thức sử dụng nguồn vốn lưu động ròng của doanh nghiệp để tài trợ cho các khoản nợ ngắn hạn như khoản phải thu, hàng tồn kho hay các khoản có tính thanh khoản cao của doanh nghiệp.
- VLĐR là phần chênh lệch giữa nguồn vốn thường xuyên với giá trị TSCĐ&ĐTDH
Vốn lưu động ròng = NVTX – TSDH
Theo công thức này, VLĐR thể hiện cân bằng giữa nguồn vốn ổn định với những tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ kinh doanh hoặc trên 1 năm. Nó phản ánh nguồn gốc vốn lưu động ròng. Có nghĩa là sau khi đã tài trợ đủ cho TSDH thì phần dôi ra đó chính là VLĐ ròng. Cách tính này thể hiện phương thức tài trợ TSDH và đồng thời phản ánh tác động của việc đầu tư lên cân bằng tài chính tổng thể.
Tuy nhiên để đánh giá cân bằng tài chính của doanh nghiệp cần nghiên cứu trong cả chuỗi thời gian thì mới dự đoán những khả năng, triển vọng về cân bằng tài chính trong tương lai. Vì vậy việc nghiên cứu VLĐ ròng tại nhiều thời điểm khác nhau để giúp cho người phân tích loại trừ được những sai lệch về số liệu. Phân tích VLĐR qua nhiều kỳ có những trường hợp sau:
+ Nếu vốn lưu động ròng giảm và âm qua các năm: Cho thấy mức độ an toàn và bền vững tài chính của doanh nghiệp giảm, vì doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn tạm thời để tài trợ tài sản dài hạn. Do đó doanh nghiệp sẽ gặp áp lực về thanh toán ngắn hạn và có nguy cơ phá sản nếu không thanh toán đúng hạn hay có hiệu quả kinh doanh thấp.
+ Nếu VLĐR dương và tăng qua năm: Cho thấy mức độ an toàn và bền vững tài chính của doanh nghiệp là tốt vì không chỉ tài sản dài hạn mà cả tài sản ngắn hạn đều được tài trợ bằng nguồn vốn thường xuyên. Điều đó có nghĩa là NVTX tăng qua các năm là do doanh nghiệp tăng nguồn vốn chủ sở hữu hay tăng nợ dài hạn. Nếu tăng vốn chủ sở hữu thì sẽ tăng tính độc lập về tài chính cho doanh nghiệp, ngược lại nếu giảm đi nguồn vốn chủ sở hữu thì tính độc lập về tài chính sẽ giảm nhưng lại tăng hiệu ứng đòn bẩy nợ nếu tăng nợ dài hạn và phải chịu rủi ro về sử dụng nợ.
+ Nếu vốn lưu động ròng có tính ổn định: Điều đó thể hiện các hoạt động của doanh nghiệp đang trong trạng thái ổn định nhưng cần xem xét đến nguồn tài trợ để có được sự ổn định đó trong tương lai.
2. Phân tích nhu cầu vốn lưu động ròng và cân bằng tài chính trong ngắn hạn
Cân bằng tài chính trong ngắn hạn thể hiện qua chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng. Nhu cầu vốn lưu động phải được dự kiến trước trong các kế hoạch kinh tế, kỹ thuật, tài chính cho DN. Mỗi DN đều có nhiệm vụ tổ chức huy động nguồn vốn lưu động sao cho đủ để dự trữ TSNH, đáp ứng nhu cầu của quá trình hoạt động kinh doanh và tiết kiệm vốn. Trong trường hợp DN không tự đáp ứng được nhu cầu về vốn, DN có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác để bổ sung vào vốn lưu động của mình. Mặt khác, DN cần có những biện pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hiệu quả các nguồn vốn, tiến hành phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn vốn hiện có nhẫn đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh của DN.
NCVLĐR = HTK + Nợ phải thu - Nợ ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn)
- Nếu NCVLĐR < 0: tức là khoản mục hàng tồn kho và các khoản phải thu nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Điều này cho thấy các khoản nợ ngắn hạn (không tính vay ngắn hạn) không những đáp ứng nhu cầu ngắn hạn của doanh nghiệp mà còn dư thừa để tài trợ cho các tài sản khác. Điều này thường xảy ra khi khách hàng ứng trước tiền hàng cho doanh nghiệp.
- Nếu NCVLĐR > 0: Khoản mục hàng tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Trong trường hợp này, nợ ngắn hạn (không kể nợ vay) không đủ tài trợ cho hàng tồn kho và các khoản phải thu của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn thường xuyên để tài trợ cho phần thiếu hụt trong nhu cầu vốn lưu động.
Ngoài ra, khi đánh giá sự biến động của nhu cầu vốn lưu động ròng cũng cần phải chú ý tới lĩnh vực kinh doanh, chính sách tín dụng bán hàng của doanh nghiệp.
3.Mối quan hệ giữa VLĐR và NCVLĐR
Nếu vốn lưu động ròng lớn hơn nhu cầu vốn lưu động ròng thì phần chênh lệch là các khoản vốn bằng tiền còn lại sau khi đã bù đắp các khoản vốn ngắn hạn. Khoảng chênh lệch này gọi là Ngân quỹ ròng.
Ngân quỹ ròng = Vốn lưu động ròng – Nhu cầu vốn lưu động ròng
Chỉ tiêu này phản ánh các trạng thái cân bằng tài chính sau:
- Nếu NQR > 0: tức là VLĐR lớn hơn NCVLĐR, điều này thể hiện một cân bằng tài chính rất an toàn vì DN không phải đi vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu vốn lưu động ròng. Ở một góc độ khác, DN không gặp tình trạng khó khăn về thanh toán trong ngắn hạn và số tiền nhàn rỗi có thể đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao để sinh lời.
- Nếu NQR = 0: VLĐR vừa đủ để tài trợ NCVLĐR, doanh nghiệp vẫn đạt trạng thái cân bằng tài chính. Tuy nhiên, toàn bộ các khoản vốn bằng tiền đầu tư ngắn hạn được hình thành từ các khoản vay ngắn hạn. Đây là dấu hiệu báo trước cho một trạng thái mất cân bằng tài chính trong tương lai.
- Nếu NQR < 0: VLĐR không đủ để tài trợ cho NCVLĐR. Điều này có nghĩa là vốn lưu động ròng không đủ để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động và DN buộc phải huy động các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt đó và tài trợ một phần TSDH khi vốn lưu động ròng âm. Cân bằng tài chính được xem là kém an toàn và bất lợi đối với DN.
Những phân tích về cân bằng tài chính khi xem xét mối quan hệ giữa VLĐR và NCVLĐR có vai trò quan trọng trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp. Qua việc phân tích, doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc xác định các nguồn vốn cần huy động sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động, vừa giảm thiểu được chi phí sử dụng vốn mà vẫn đảm bảo một trạng thái cân bằng tài chính an toàn. /.
Nguyễn Thị Minh Hà