LẠM PHÁT VÀ GIẢM PHÁT
1.Lạm phát:
-Khái niệm: Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và đi kèm là sự mất giá trị của một loại tiền tệ.
Khi mức giá chung tăng cao, tiền của bạn sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây.
Có thể lấy ví dụ về lạm phát ở Việt Nam như sau: Năm 2020, Nguyễn Văn A chỉ bỏ ra 35.000 đồng để thưởng thức một tô phở. Nhưng đến đầu 2023, Nguyễn Văn A phải bỏ ra 50.000 đồng để ăn đúng tô phở tương tự. Như vậy, người dùng đã phải bỏ ra một số tiền lớn hơn để chi trả cho cùng 1 loại hàng hóa. Nếu nhiều loại hàng hóa đều tăng giá như vậy thì sẽ kéo lạm phát
-Nguyên nhân gây ra lạm phát:
+ Lạm phát do nhu cầu của người tiêu dùng tăng đột biến làm giá cả tăng lên.
+ Lạm phát cũng có thể xảy ra khi giá cả các yếu tố sản xuất như tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên vật liệu tăng.
+ Lạm phát xảy ra do nhập khẩu: Giá cả loại hàng hóa nhập khẩu thường tăng do chi phí thuế tăng hoặc thị trường thế giới tăng, từ đó giá bán hàng hóa sẽ có mức bán giá tăng cao.
+ Lạm phát xảy ra do cầu thay đổi: Mối quan hệ giữa cầu và cung thay đổi dẫn đến tình trạng nhà cung ứng độc quyền cung cấp một loại hàng hóa nào đó cùng mức chính sách giá không ổn định và tăng giá liên tục.
- Lạm phát tiền tệ:
Khi Ngân hàng Nhà nước mua các loại trái phiếu theo yêu cầu của Nhà nước, điều đó dẫn đến lượng tiền lưu thông trong nước tăng lên.
Hoặc ở một trường hợp khác do ngân hàng mua ngoại tệ để giữ cho đồng tiền không bị mất giá so với tiền ngoại tệ. Tất cả cùng là nguyên nhân dẫn đến lạm phát tiền tệ.
2.Giảm phát:
-Khái niệm: Giảm phát (Deflation) là tình trạng giảm giá của hàng hóa và dịch vụ diễn ra liên tục trong một khoảng thời gian dài. Do đó trái ngược với lạm phát nên cũng có thể nói giảm phát là lạm phát âm.
Trong thời kỳ giảm phát, giá cả giảm nhưng sức mua của đồng tiền tăng lên, từ đó, cùng một đơn vị tiền tệ có thể mua được nhiều hàng hóa dịch vụ hơn.
Sự giảm giá chung này có thể được coi là một điều tốt vì nó mang lại cho người tiêu dùng sức mua lớn hơn trong ngắn hạn. Tuy nhiên, giảm phát kéo dài hoàn toàn gây ra bất lợi cho nền kinh tế.
Giảm phát thường xảy ra khi nền kinh tế đang trải qua một cuộc suy thoái hoặc khi nguồn cung vượt quá nhu cầu.
Giảm phát và lạm phát khác nhau thế nào?
Dưới đây là một số điểm khác biệt cơ bản giữa lạm phát và giảm phát:
|
Giảm phát |
Lạm phát |
Tác động đến giá trị đồng tiền |
Làm tăng giá trị đồng tiền |
Làm giảm giá trị đồng tiền |
Tác động tiêu cực/tích cực đến nền kinh tế |
Giảm phát đa phần là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang đi xuống |
Lạm phát ở mức vừa phải (2%) có lợi cho nền kinh tế
|
Đối tượng hưởng lợi |
Giảm phát lại được coi là có lợi cho người tiêu dùng |
Lạm phát trong một số trường hợp được xem là có lợi cho người sản xuất |
Nguyên nhân |
Giảm phát được gây nên bởi các yếu tố cung tiền và tín dụng |
Nguyên nhân gây ra lạm phát chủ yếu do các yếu tố Cung - Cầu |
Tác động khác |
Giảm phát sẽ dẫn đến giảm chi tiêu và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp |
Lạm phát gây nên tình trạng phân phối tiền không đồng đều |
Giải pháp chống lại giảm phát
Để chống lại quá trình giảm phát với tất cả những tác hại tiêu cực của nó, thường áp dụng những giải pháp "ngược chiều" với chống lạm phát. Nổi bật là việc giảm lãi suất, mở rộng thâm hụt ngân sách, nới lỏng tín dụng và tăng lương,... nhằm kích cầu nền kinh tế.
Giảm phát có từng xảy ra ở Việt Nam chưa?
Khái niệm giảm phát xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam từ năm 2000. Sau khi chính sách “đổi mới” và thả lỏng giá cả được thi hành, mức lạm phát giảm xuống 4,2% vào năm 1999. Đến đầu thập niên thứ nhất của thế kỷ 21, Việt Nam trải qua giảm phát nhẹ ở mức -1.6% vào năm 2000 và -0.4% vào năm 2001../