Nguyên tắc thẩm định khách hàng vay vốn
Khi đánh giá khách hàng cần phải được thực hiện theo 2 góc độ :
Theo định tính : đó là nhằm hiểu được ý muốn hoàn trả của người vay.
Theo định lượng: mục đích của việc phân tích tài chính của khách hàng là xem xét khả năng của khách hàng về nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn chiếm dụng và vốn vay, hàng hoá tồn kho, cơ cấu tài sản lưu động và cố định đến thời điểm hiện tại, đó là phân tích định lượng. Từ đó có được kết luận về thực trạng khả năng của khách hàng trong việc hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng.
Bên cạnh việc đánh giá đó, quá trình tiếp tục theo dõi và tác động theo hướng hiện thực hóa các giá trị được phân tích và thẩm định sẽ góp phần làm cho mục tiêu của một khoản vay đạt kết quả. Việc tiến hành chi tiết đánh giá theo Nguyên tắc 6 C sẽ làm thoả mãn các yêu cầu đối với một khoản vay tốt theo quan điểm của người cho vay.
Nhân viên tín dụng phải có được bằng chứng cho thấy khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi đến ngân hàng đề nghị vay vốn, và đồng thời phải có kế hoạch trả nợ nghiêm túc :
Nếu không biết chắc chắn mục tiêu, lý do khách hàng vay vốn, thì nhân viên tín dụng cần phải tiến hành điều tra, xác minh cho đến khi có câu trả lời xác đáng. Sau khi mục tiêu vay vốn đã được làm rõ, nhân viên tín dụng phải xem xét đến sự phù hợp với chính sách cho vay hiện tại của ngân hàng để có được sự quyết định tương thích thỏa đáng.
Mặc dù đã xác định được mục tiêu vay vốn của khác hàng tốt, nhưng nhân viên tín dụng cũng cần phải xác định trách nhiệm của khách hàng trong việc sử dụng tiền vay.
Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo nên tính cách của khách hàng trong đánh giá của nhân viên tín dụng. Nếu khách hàng không trung thực trong cam kết sử dụng vốn vay hay kế hoạch trả nợ thì không thực hiện cho vay hơn là để nó trở thành một khoản nợ khó đòi đối với ngân hàng.
Nhân viên tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng có đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn và sự am hiểu về điều hành và sắp xếp công việc (định tính).
Đây là nội dung quan trọng đối với một đề nghị vay vốn mà vấn đề cần đánh giá và phân tích đó là : “Khả năng của khách hàng đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng món vay” được xác định căn cứ trên các nguồn lực thực sự trong chính hoạt động của họ như thế nào (định lượng) ? Câu trả lời chính là cơ sở xác nhận cho Sự Tín Nhiệm mà ngân hàng có được quyết định cho việc thực hiện khoản vay.
Nhìn chung, khách hàng vay vốn chỉ có ba nguồn có thể hoàn trả khoản vay:
Bất cứ nguồn nào trong ba nguồn trên đều có thể được sử dụng để đáp ứng nhu cầu bằng tiền trong việc thanh toán nợ cho ngân hàng. Nhưng điều ngân hàng đặc trọng tâm là dòng tiền từ doanh thu bán hàng và xem đây là nguồn chính để thanh toán nợ vay, vì nếu có nguồn thu từ việc bán các tài sản có thể sẽ làm suy yếu đi năng lực kinh doanh của khách hàng và làm cho ngân hàng sẽ trở nên các chủ nợ không có được sự bảo đảm chắc chắn. Hầu hết các ngân hàng đều do dự trong việc tài trợ cho các khách hàng không có triển vọng tốt trong kinh doanh.
Bảo đảm được biết đến như là nguồn trả nợ thứ hai. Khi mà khoản vay không được hoàn trả bởi nguồn trả nợ thứ nhất, các định chế tài chính sẽ lấy quyền sở hữu của các khoản thế chấp, chuyển nhượng nó và sử dụng phần tiền thu được để trừ vào khoản nợ chưa trả. Theo nghĩa đen của từ colatteral là “đi kèm theo”, tức nói đến tính an toàn kèm theo khoản vay nợ. Khi mà ngân hàng chấp thuận việc rút quá số dư tiền gởi của danh mục hàng hoá, thì danh mục này là khoản thế chấp.
Khi đánh giá về tài sản thế chấp, câu hỏi đặt ra cho nhân viên tín dụng cần được giải đáp đó là : “Người vay có sở hữu một tài sản nào đó với trị giá tương xứng với khoản vay không ?”
Sự nhạy cảm trong nhận thức đối với nhân viên tín dụng đối với các vấn đề như sau là cần thiết khi đánh giá tài sản thế chấp : Thời gian sử dụng., tính khả mại của tài sản được thế chấp.
5. Thẩm định phương án / dự án và các yếu tố tác động
Việc phân tích nội dung Điều Kiện, đó là phải nhận biết được những xu hướng tiến triển cận kề của khách hàng cũng như của lĩnh vực mà khách hàng đang hoạt động, thấy được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay.
Một khoản cho vay có thể rất tốt trên giấy tờ, có thể như bài giải cho một đáp án hơn là sự suy xét và đánh giá kinh tế, nhưng có thể giá trị của nó sẽ bị sút giảm khi doanh thu hay thu nhập dễ dàng bị nhiều tác động từ sự biến động kinh tế hoặc sức ép của biến động giá cả, lạm phát…
Kiểm soát đó là quá trình đánh giá lại tính khách quan và hợp lý của tất cả các giá trị tính toán và cơ sở kinh tế khi xem xét cho vay, đồng thời đánh giá sự tác động của thời gian và thay đổi các cơ chế, chính sách của các cơ quan quản lý có gây ra những bất lợi nào cho người vay và khả năng đáp ứng của khách hàng trong những trường hợp đó./.
Nguyễn Thị Minh Hà