Theo The Saigon Times
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển trong quý II của năm, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 7,7% so với cùng kỳ, mức tăng trưởng hàng quý cao nhất trong 11 năm.
Hiệu suất lạc quan
HSBC trong báo cáo gần đây, “Việt Nam trong nháy mắt”, cho rằng tốc độ tăng trưởng cao là nhờ vào làn gió phục hồi mạnh mẽ trên diện rộng giữa các lĩnh vực. Tương tự như nhiều nước, rủi ro Omicron giảm dần và nới lỏng các hạn chế đã tạo cơ sở cho việc Việt Nam trở lại trạng thái bình thường.
Các dịch vụ, từng chịu gánh nặng của một tác động kinh tế, đã có sự phục hồi có ý nghĩa. Đặc biệt, các dịch vụ liên quan đến du lịch và hướng tới người tiêu dùng phần lớn được hưởng lợi từ việc tái mở cửa bền vững. Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất tiếp tục tăng vọt, đưa xuất khẩu lên mức cao nhất trong lịch sử.
Ngân hàng nhận xét rằng ngành du lịch đang khởi sắc khi mùa du lịch hè đã bắt đầu, đồng thời cho biết thêm rằng việc nhận thấy sự cải thiện đáng kể trong các dịch vụ là điều đáng khích lệ. Nhờ việc dỡ bỏ các lề đường chính của địa phương và các hạn chế biên giới vào giữa tháng 3, các lĩnh vực liên quan đến du lịch đã bắt đầu nhận được lượng khách du lịch đáng kể. Trong quý 2 năm 2022, Việt Nam đã đón 500.000 lượt khách, gần gấp 5 lần so với quý 1, nâng tổng lượng khách du lịch lên 600.000 lượt trong nửa đầu năm nay.
Trước đại dịch, 80% khách du lịch đến từ châu Á, đứng đầu là Trung Quốc đại lục (32%) và Hàn Quốc (24%). Hiện tại, chỉ 65% khách du lịch đến từ khu vực: khách du lịch châu Âu (16%) và Mỹ (11%) đã chiếm một lượng lớn khách du lịch sau đại dịch, ngay sau Hàn Quốc (18%). Tổng cục Du lịch (VNAT) đặt mục tiêu tham vọng đạt 5 triệu lượt khách du lịch nước ngoài vào năm 2022, hơi thấp so với mức 30% của năm 2019. Tuy nhiên, sự phục hồi của ngành du lịch có thể sẽ diễn ra từ từ, đặc biệt là do thiếu khách du lịch Trung Quốc.
Trong khi đó, doanh số bán lẻ vượt 17% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý thứ hai, báo hiệu sự phục hồi trở lại của tiêu dùng hộ gia đình. Một phần của thành công là do thị trường lao động đang dần phục hồi. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 2,3% trong quý này, trong khi việc làm tiếp tục tăng lên gần với mức trước đại dịch.
Bên cạnh việc giúp nhu cầu trong nước phục hồi, ngành sản xuất của Việt Nam đã chứng tỏ được vị thế của riêng mình. Tất cả các dấu hiệu đều chỉ về một hướng tăng trưởng của công ty sản xuất. Mặc dù một phần do ảnh hưởng của cơ sở thuận lợi, tăng trưởng sản xuất công nghiệp đã tăng tốc đạt trên 25% so với cùng kỳ năm trước trong quý II / 2022.
Tăng trưởng xuất khẩu đạt tốc độ ấn tượng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý 2 năm nay, một phần ba trong số đó đến từ các lô hàng máy tính và điện thoại thông minh của công ty. Tuy nhiên, dệt may, da giày và máy móc đã ghi nhận mức tăng trưởng khá, cho thấy động lực bên ngoài của Việt Nam đang bùng nổ trở lại. Tuy nhiên, nhập khẩu cũng tăng trưởng mạnh, đạt hơn 15% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý II năm nay.
Những rủi ro vẫn còn
Việt Nam đã được hưởng lợi từ quá trình tái mở cửa kinh tế có ý nghĩa. Nhu cầu trong nước đang đi đúng hướng, trong khi động cơ bên ngoài của nó tiếp tục gây ấn tượng. Điều đó nói rằng, nó cần phải lưu ý đến những rủi ro gia tăng đối với tăng trưởng, đặc biệt là do giá năng lượng tăng cao.
Theo ngân hàng, tác động của giá năng lượng cao ngày càng trở nên rõ ràng. Thứ nhất, giá hàng hóa tăng cao đã khiến cán cân thương mại thâm hụt trong quý thứ hai, có khả năng làm trầm trọng thêm tài khoản vãng lai đang xấu đi. Ngoài ra, mặc dù tiêu dùng hộ gia đình phục hồi vững chắc, giá dầu cao có thể sẽ khiến người dân mất tiền, làm giảm tốc độ phục hồi liên tục của nó. Áp lực giá đã bắt đầu xuất hiện, mặc dù với tốc độ vẫn có thể kiểm soát được so với các công ty cùng ngành trong khu vực.
HSBC dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,9% vào năm 2022, có khả năng đứng đầu khu vực. Nhưng nó cắt giảm dự báo tăng trưởng năm 2023 xuống còn 6,3%, xem xét các rủi ro đi xuống, đặc biệt là từ phía năng lượng. Về giá cả, lạm phát dự kiến sẽ ở mức trung bình 3,5% vào năm 2022, nhưng đà lạm phát có khả năng tạm thời vượt mức trần 4% trong một thời gian, ngày càng đòi hỏi bình thường hóa tiền tệ.
Một điểm sáng trong khả năng phòng ngừa rủi ro từ bên ngoài của Việt Nam nằm ở dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ổn định, tạo điểm neo cho cân bằng cốt lõi của Việt Nam. Trên cơ sở luân phiên, dòng vốn FDI mạnh đã có thể bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai trong các quý vừa qua. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào lĩnh vực sản xuất tiếp tục tăng, phản ánh mối quan tâm vững chắc và niềm tin của các nhà đầu tư vào các nền tảng cơ bản lành mạnh của Việt Nam.
Uyên Thi - KTTC