CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ TRÁI PHIẾU
1.Trái phiếu:
Trong những năm gần đây với sự phát triển của Thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán đã tạo ra một kênh cung ứng vốn đa dạng cho các Doanh nghiệp và nó cũng là kênh đầu tư thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ trên thị trường. Đáng chú ý là trong giai đoạn dịch bệnh kéo dài như hiện nay, việc đi lại còn hạn chế nên việc tìm kiếm nguồn thu nhập từ đầu tư chứng khoán cũng là một kênh đầu tư khá phổ biến. Hàng hoá trên Thị trường chứng khoán ở nước ta chủ yếu là Cổ phiếu và Trái phiếu, bên cạnh Cổ phiếu là hàng hoá cơ bản thông dụng thì Trái phiếu cũng là một kênh đầu tư an toàn và có khả năng sinh lời tốt.
Trước tiên chúng ta cần hiểu Chứng khoán là gì?
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
Chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán, theo sự phát triển của thị trường, hàng hoá của thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng, phong phú và được phân chia thành nhiều loại. Về đặc điểm cơ bản thì chứng khoán có các đặc điểm sau:
Tính thanh khoản:
Tính thanh khoản của chứng khoán là khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, tính thanh khoản của chứng khoán thể hiện chứng khoán đó được mua bán dễ dàng trên thị trường.
Tính sinh lời
Thể hiện ở các khoản thu nhập mà nhà đầu tư có được do tăng giá chứng khoán hay các khoản tiền lãi được trả hàng năm.
Tính rủi ro:
Đây là đặc trưng cơ bản của chứng khoán, trong quá trình trao đổi mua đi bán lại, giá chứng khoán có thể bị giảm hoặc bị mất hoàn toàn gọi là rủi ro.
Như vậy Trái phiếu là một loại chứng, nó là chứng chỉ vay nợ của Chính Phủ, Chính quyền địa phương hoặc của Doanh nghiệp, thể hiện nghĩa vụ của người phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một số tiền lãi nhất định, vào những khoảng thời gian nhất định, và phải trả lại khoản tiền gốc khi khoản tiền vay đến hạn (khi Trái phiếu đáo hạn). Người nắm giữ Trái phiếu là chủ nợ của người phát hành và họ không có quyền sở hữu công ty như những cổ đông.
Trái phiếu là loại chứng khoán nợ trung và dài hạn, người phát hành với tư cách là người đi vay, người mua Trái phiếu là người cho vay và được gọi là Trái chủ. Đối với người thiếu vốn , Trái phiếu là phương tiện vay vốn qua thị trường tài chính. Khi Doanh nghiệp phát hành Trái phiếu sẽ làm tăng nợ phải trả trong Doanh nghiệp mà cụ thể là nợ dài hạn. Đối với người đầu tư, Trái phiếu cũng là một phương tiện đầu tư để sinh lời.
Trái phiếu là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu.
Trái phiếu là một công cụ nợ đòi hỏi người phát hành (còn gọi là người đi vay hay con nợ) hoàn trả cho người cho vay (người đầu tư) lượng vốn đã vay (mệnh giá Trái phiếu) cộng với tiền lãi trong một thời gian nhất định.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá Trái phiếu:
a.Thời gian đáo hạn của Trái phiếu:
Khi đầu tư vào trái phiếu, sẽ luôn có rủi ro đi kèm với việc nắm giữ trái phiếu đó. Thời gian còn lại đến ngày đáo hạn, hay kỳ hạn còn lại (time to maturity) của trái phiếu càng ngắn thì rủi ro càng thấp, và do đó giá của trái phiếu càng cao. Giá trơn của trái phiếu sẽ có xu hướng tăng dần theo thời gian và bằng với mệnh giá trái phiếu tại ngày đáo hạn, trừ trường hợp tổ chức phát hành có những dấu hiệu vỡ nợ rõ ràng và nhà đầu tư có khả năng không thu hồi được một phần hay toàn bộ giá trị đầu tư trái phiếu của mình.
b.Khả năng tài chính của tổ chức phát hành:
Cung cấp trái phiếu là một khả năng của người đi vay nhằm giải quyết vấn đề vốn, do đó nhà đầu tư rất quan tâm đến khả năng thanh toán lãi và vốn gốc của người cung cấp trái phiếu. Nếu có những bất lợi về khả năng tài chính của chủ thể phát hành thì lập tức giá trái phiếu đó sẽ sụt giảm trên thị trường chứng khoán.
c. Lãi suất thị trường
Lãi suất thị trường cho các tài sản thu nhập cố định tăng sẽ dẫn đến giảm giá trái phiếu có cùng kỳ hạn còn lại và ngược lại. Nguyên nhân là vì với cùng một số tiền đầu tư và khoảng thời gian định đầu tư, nhà đầu tư mua trái phiếu mới phát hành sẽ được hưởng mức lãi suất danh nghĩa (coupon) cao hơn so với mua một trái phiếu đã phát hành trong quá khứ khi mặt bằng lãi suất coupon thấp hơn.
d.Đặc tính phái sinh của trái phiếu:
Ngoài trái phiếu thông thường, trên thị trường cũng tồn tại những trái phiếu đi kèm với các đặc tính phái sinh như trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu (convertible bond), trái phiếu có kèm chứng quyền (bond with warrant), trái phiếu có thể mua lại trước hạn (callable bond)… Việc định giá các trái phiếu này, ngoài chiết khấu dòng tiền gốc lãi thông thường sẽ cần thêm cả định giá các đặc tính phái sinh đi kèm. Giá của các trái phiếu này sẽ thấp hơn trái phiếu tương đồng thông thường nếu như rủi ro cho nhà đầu tư cao hơn. Ngược lại, giá trái phiếu có đặc tính phái sinh sẽ cao hơn trái phiếu thông thường nếu như lợi ích kỳ vọng cho nhà đầu tư cao hơn./.
Nguyễn Thị Minh Hà